Văn hóa nghệ thuật

SỰ RA ĐỜI VÀ TRUYỀN BÁ ĐẠO PHẬT

  • 07:49
  • |
  • Chủ Nhật, 08/06/2014

Theo truyền thuyết Phật Giáo thì đạo Phật ra đời vào thế kỉ VI TCN người sáng lập ra đạo Phật là Xitđácta Gôtama (Suddhodana) nước Kapilavaxtu ở chân núi Hymalya (vùng đất bao gồm một phần miền Nam nước Nê pan và một phần các ban Utta, Prađesơ và Biha của Ấn Độ ngày nay).

SỰ RA ĐỜI VÀ TRUYỀN BÁ ĐẠO PHẬT

 

                                           Nguyễn Thị Hồng – sưu tầm

Theo truyền thuyết Phật Giáo thì đạo Phật ra đời vào thế kỉ VI TCN người sáng lập ra đạo Phật là Xitđácta Gôtama (Suddhodana) nước Kapilavaxtu ở chân núi Hymalya (vùng đất bao gồm một phần miền Nam nước Nê pan và một phần các ban Utta, Prađesơ và Biha của Ấn Độ ngày nay).

Truyền thuyết Phật giáo cũng kể về sự ra đời của Đức Phật rất màu nhiệm và huyền diệu, vì bà hoàng hậu Maya, vợ vua Sutđôđana không mang thai một cách bình thường, mà do bà nằm mơ thấy một con voi trắng sáu ngà húc bên sườn phải rồi chui tọt vào bụng bà. Sau đó, hoàng hậu có thai. Sau mười tháng, bà sinh ra hoàng tử. Vừa mới lọt lòng mẹ, hoàng tử đã đứng thẳng dậy và ở  tư thế  của người đang thuyết pháp. Khi lớn lên hoàng tử có tư chất thông minh  lạ thường , học gì biết nấy , có sức khỏe và cả tài bắn cung nỏ .Bản tính thái tử rất nhân từ , sau vài lần ra ngoài cung điện dạo chơi:Lần thì Thái tử  gặp người già nua lọm khọm , lần thì  gặp người ốm , đang đau đớn rên  rỉ, lần thì thấy người chết , những người thân thích đem đi chôn , khóc lóc thảm thiết .

Trông thấy những cảnh đời  đau khổ phiền não của người đời , Ông thấy lòng buồn rầu vô hạn .Lần sau  cùng .Thái tử  ra ngoài  cửa thành gặp một nhà tu hành , hình dáng đoan trang , vẽ mặt nghiêm nghị  .Thái tử hiểu rằng chỉ có sự tu hành  mới giải thoát được mọi sự đau buồn, khổ não  ở trần gian .Từ đó đêm ngày Thái tử nghĩ cách xuất gia đi tu .Thái tử đã mấy lần  xin  phép vua cha đi  nhưng không  được  vua cha  ưng thuận.Khoảng năm  20 tuổi .Thái tử phải vâng lệnh vua cha thành hôn cùng công chúa Yasôđana và sinh hạ được một  người con trai  tên là La Hầu La .Vua cha biết ý con nên  một mặt tìm mọi cách  bày ra nhiều trò vui để  Thái tử được khây khỏa, mặt khác sai quân lính canh phòng nghiêm ngặt .Nhưng kết cục  cũng không  ngăn được dự định của Thái tử .

Một hôm nhân  bữa yến tiệc, sau khi mọi người đã say sưa  và im ắng .Thái tử gọi người hầu thân cận  tên là Sanna (Channa) đi lấy ngựa  cho Thái tử .Ông lén mở cửa thành   đi ra ngoài  cùng với người hầu thân cận của mình mà không ai hay biết .Ra khỏi cửa thành .Thái tử phát lên lời thề “Nếu Ta  không diệt được sự đau buồn khổ  não  và không đạt được cái đạo chân thực  thì Ta không về  qua cửa này nữa ” .

Khi Thái tử rời bỏ  cuộc sống gia đình êm ấm , để lại vua cha , vợ con , cung điện  để ra đi  tìm con đường cứu vớt  chúng sinh  năm Ông vừa tròn 29 tuổi.

Rời cung điện ,Ông tiến lên phía Bắc về miền núi tuyết  rồi đến một khu rừng ,Ông cho người hầu  dắt ngựa về .Ông lấy gươm cắt tóc ,cởi áo đổi cho người  đi săn  rồi một mình đi tìm      các danh sư  ở vùng ấy để học đạo .Từ đó Ông trở thành  một nhà tu hành

Sau gần sau năm tu hành khổ hạnh , nhịn   ăn , nhịn mặt , mỗi ngày chỉ ăn một chút thức ăn để  cầm hơi , đến nỗi thân hình Ông tiều tụy , da bọc lấy xương , nhiều  lúc  khắc khoải tưởng như chết  vậy mà cũng chẳng được cái “ đạo ”   của cuộc sông ,Bỗng nhiên Ông  chợt nghĩ ra rằng : “ Ta tu  khổ hạnh như thế này  mà không thấy rõ đạo , thì cách tu của Ta  vẫn chưa phải .Cuộc sống khắc khổ ngày nay  không hơn gì cuộc sống khoái lạc  ngày xưa , chi bằng Ta nên theo con đường giữa , cứ ăn uống như bình thường , không say mê việc đời  mà  cũng không khắc khổ hại thân  thì mới đắc đạo được” .

Nghĩ thế Ông liền đứng dậy  đi xuống sông tắm , khi ấy có một người đàn bà chăn bò  đem bát sữa đến mời  Ông ,Ông  uống sữa xong , thấy trong người khoan khoái , dễ chịu .Sau đó Ông  một mình đi đến chỗ có cây bồ đề . lấy lá cây làm đệm ,Ông  ngồi đó  và phát ra lời thề.

“Nếu Ta ngồi đây mà không giác ngộ được đạo thì quyết không đứng dậy nữa ” .

Ông ngồi dưới gốc cây bồ đề  bốn mươi chín ngày , mặt hướng  về phía Đông , suy nghĩ  các lẽ về sự  đau khổ  của chúng sinh  và nguyên do của sự biến  hóa   vô thường trong thế gian .

Sau những năm tháng tu luyện khổ hạnh  và không ngừng suy tưởng .Năm 35  tuổi vào một  buổi sớm  mai , lúc rạng đông .Xitđacta Gôtama đã đắc đạo ,Nghĩa là Ông đã thấu suốt hết thảy  mọi lẽ của tạo hóa ,nghĩ được cách giải thích  bản chất của sự tồn tại , nguồn gốc của mọi đau khổ  và tìm  được con đường cứu  vớt cho chúng sinh.Từ đó Ông tự  gọi mình là Buddha,mà ta  quen gọi là Phật  hoặc Bụt (Tức Người đã  giác ngộ  ,Người đã hiểu được chân lý ).

 Sau khi thành Phật ,Ông được các đệ tử  tôn xưng là XakiaMuni (Thích ca Mâu  ni) nghĩa là vị hiền triết ,( hay nhà thông thái ) của bộ tộc Xakia .Đắc đạo rồi .Phật đi thuyết pháp và truyền bá  tư tưởng của mình  ở lưu vực sông Hằng  cùng với các đệ tử của mình  trong suốt 40 năm  trời .Những giáo lí mà  ông truyền  bá  được lưu giữ cho đến ngày nay .Tư tưởng của Phật giáo đã lan truyền sang các nước Đông Nam Á.

 

Theo nhà sử học Pasnhicôp trong những cuốn tôn giáo ở các nước Đông Nam Á cho rằng số tín đồ ở vùng này chiếm khoảng 1/3 (tức khoảng 34%) dân cư.Theo số liệu thống kê của tác giả vào năm 1976 ở Đông Nam Á có khoảng trên 115 triệu tín đồ Phật giáo. Đạo phật là một tôn giáo chiếm ưu thế trong các nước trên bán đảo Trung Ấn. nơi mà tập trung tới trên 94%tín đồ phật giáo ở Đông Nam Á, trong khi đó, ở các quốc gia còn lại số tín đồ Phật giáo chỉ chiếm dưới 6%

Tỉ lệ  phần trăm  số tín  đồ phật giáo  ở mỗi nước  so với trong toàn  vùng như sau .

Thái Lan  có tín đồ Phật giáo  đông nhất  chiếm gần 34%, Việt Nam :Trên 28,4%,Mianma trên 22% ,Campu chia  khoảng 7%, Lào gần 2,7%,Xingapo dưới 1% các nước Brunay , Philippin ,và đảo Timo dưới 6%

 

Ở Việt Nam qua nhiều công trình nghiên cứu, cho đến nay, các nhà sử học ở nước ta đều cho rằng : Đạo Phật du nhập vào nước ta từ rất sớm. Ngay từ thế kỉ III, Luy Lâu (Thuận Thành – Bắc Ninh ngày nay) đã trở thành một trung tâm Phật  giáo  trong khoảng thời gian  từ thế kỉ thứ VI  đến  thế kỉ IX Phật giáo  cũng  được truyền bá rộng hơn, chùa chiền mọc lên ở nhiều nơi, cư dân Việt theo đạo Phật này càng nhiều. Đến thế kỉ X – XI, dưới thời Lí, Phật giáo gây ảnh hưởng lớn đối với Đại Việt. Theo nhận xét của nhà sử học Lê Văn Hưu : “nhân dân quá nửa là sư sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa”. Dưới thời Trần, nhà Nho Trương Hán Siêu cũng cho rằng : “thiên hạ năm phần thì sư- tăng chiếm một”. Ngay cả đến những người đứng trong đầu nhà nước phong kiến Đại Việt lúc đó như Lí Thánh Tông, Lí Cao Tông,các  vua Trần  như Trần Thái Tông ,Trần  Nhân Tông ,Trần Anh Tông cũng là  những  Phật tử trung thành của đạo Phật .Rõ ràng là ảnh hưởng  của đạo Phật đối với Đại Việt  không nhỏ.Người Việt không tiếp nhận Phật giáo một cách thụ động  mà những người  có học thức , những người cầm quyền đã gắn với đạo Phật  với quyền lợi dân tộc , đã soạn giáo lí đạo Phật của riêng mình , tạo cơ sở cho sự ra đời  của phái Thiền Trúc Lâm ,một phái Thiền thuần túy Việt Nam .Thế kỉ thứ XV,nhà Lê lên ngôi , lấy đạo Nho làm chủ đạo .Phật giáo suy tàn dần , không  còn giữ vị trí độc tôn như thời Lí –Trần , song vẫn giữ được gốc rễ  sâu bền trong nhân dân  đồng thời với thái độ khoan  dung ,Phật giáo đã chung sống với Nho giáo ,Lão giáo  theo kiểu “tam giáo đồng nguyên” .Thời kì nhà Nguyễn  cũng như thời Pháp thuộc  Phật giáo trong tình trạng suy vi.Mãi tới năm 30 của thế  kỉ XX một số nhà tu hành  và nhân sĩ yêu nước  đã đứng ra vận đông phong trào “ chấn hưng Phật giáo ”phong trào này kéo dài đến tận 1954.

Giai đoạn 1954-1975  đất  nước bị chia cắt Phật  giáo hai miền  có sự khác nhau Ở miền Bắc “Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam  ”  ra đời( 1958) đã quy tụ Phật giáo miền Bắc vào một tổ chức  duy nhất  vừa hoạt đông tôn giáo , vừa hoạt đông yêu nước , đó là  bước  chuyền biến  quan trọng  trong tiến trình gán bó với dân tộc  của giới Phật giáo  ở  miến Bắc

Ở miến Nam tình hình  Phật giáo diễn biến  khá phức tạp, song có thể nhận xét khái quát là :Trong những năm 1954-1975 một bộ phận nhỏ Phật giáo ở  miền Nam  đã bị chi phối bởi những khuynh hướng tiêu cực , song đại đa số Tăng –Ni  Phật tử  đứng về phía dân tộc , hưởng ứng ủng hộ và tham gia cách mạng .Chính vì những nổ lực  và đóng góp  của đông đào Tăng –Ni Phật tử đã duy trì  được ảnh  hưởng tích cực của Phật  giáo  trong dân tộc .

Sau năm 1975 đất  nước hoàn toàn giải phóng , non sông thu về một mối , đó là điều kiện cho giới Phật giáo thống nhất  các  hệ phái  trong một tổ chức chung .Tháng 11 năm 1981.Đại hội đại biểu  thống nhất Phật  giáo đã long trọng tổ chức tại thủ đô Hà Nội , Với gần hai trăm đại  biều Tăng –Ni , cư sĩ đại điện  cho các tổ chức  hệ giáo  phái trong cả nước  về dự .Đây là một sự kiện cực kì  trọng đại  trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Nhìn chung Phật giáo  đến Việt Nam  từ rất sớm .Phật giáo Việt Nam tiếp thu  ảnh hưởng  cả từ hai phía Ấn Độ  và Trung Hoa .Ở Việt Nam  hội tụ cả hai dòng Phật giáo  chính là Đại thừa và Tiều thừa , đồng thời chịu ảnh  hưởng của ba tông phái lớn :Thiền Tông .Tịnh Độ Tông và Mật Tông ,trong đó Thiền Tông là sâu  sắc  hơn cả .Phật giáo tồn tại cùng với Nho  giáo  và Lão giáo  và chịu ảnh hưởng của hai tôn giáo này  cùng nhiều phong  tục tập quán  và tín ngưỡng  dân gian , tạo nên một Phật giáo  “ rất Việt Nam ”.Trãi qua bề dày gần 20 thế kỉ Phật giáo Việt Nam luôn gắn với dân tộc , góp phấn quan trọng  trong việc xây dựng nền  văn hóa dân tộc , trong tư tưởng đạo đức, lối sống  của nhân dân